Thảm kịch - Chương 16
Sau ngày 30/4/1975, cái tên Việt Nam Cộng Hòa chỉ còn là quá khứ với những hoài niệm ngọt ngào. Toàn bộ dân miền Nam bắt đầu một kiếp sống mới của những con robot. Có miệng nhưng không được nói, có tư duy nhưng không được suy nghĩ, tóm lại là phải sống kiếp sống của những con rối. “Đảng” biểu sao, làm vậy. Con gà mà đảng nói con chó, dân cũng phải gật đầu. Không chỉ gật đầu thôi mà mặt còn phải nở nụ cười “hạnh phúc” vì “méo mặt” là bị khép tội “coi thường Đảng vinh quang”. Giờ đây, dân miền Nam mới thấu triệt được giá trị của Tự Do và Dân Chủ thời VNCH. Đảng CS trở thành hung thần tàn bạo và xảo trá. Nhân dân chúng ta, sau bút đầu bỡ ngỡ với những giá trị cuộc sống được định nghĩa theo “ý Đảng” ( triệt tiêu và tối giản hóa mọi quyền cơ bản con người ), đã chỉ còn biết vâng dạ làm theo. Đảng CSVN đã lộ tẩy là một bạo đảng khát máu chưa từng có trong lịch sử. Những thành phần tay sai xu thời được dịp đè đầu cởi cổ dân, chúng là bọn “bồi sĩ” : văn sĩ, thi sĩ, ca sĩ, diễn viên, tất tần tật đều làm tay sai của cái đảng này, dù biết XHCN chỉ là thứ rác rưởi thời đại. Không một chủ nghĩa nhân văn nào lại đem chính đồng bào mình vào địa ngục trần gian đầy ai oán. Cuộc sống dường như không thể nào nghiệt ngã hơn. Nỗi nghẹn ngào cay đắng cũng như núi hờn căm chỉ còn được bày tỏ qua bao tiếng thở dài não nề và ánh mắt buồn sầu trên những gương mặt khắc khổ. Một xã hội thời tiền sử đang tồn tại ngang nhiên giữa thế kỷ 20…
Tính phi nhân, phi nghĩa của bọn CS ác ôn đè nặng lên cuộc sống thường nhật của nhân dân. Từ năm 75- 85 thực sự là địa ngục trần gian, nghiệt ngã và bi đát mà có người từng gọi đó là “thập kỷ bóng đêm”. Chế độ VNCS bị bao vây cô lập hoàn toàn, chỉ sống lây lất nhờ viện trợ của “anh em XHCN”. Tình trạng “bế quan tỏa cảng” đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng, dù cho Việt Nam nổi tiếng với “rừng vàng biển bạc” ( đã được CS đổi thành “rừng đỏ biển máu )… Miền Nam biến thành một lò sát sinh vĩ đại, mà ở đó, những con người vô tội bị hành hạ, tra tấn và bức tử một cách có bài bản, hệ thống. Chao ôi, chế độ XHCN ưu việt đã biến con dân VN thành những hình nhân ốm yếu, gầy gò, mất hết sức kháng cự để chúng dễ bề cai trị. Dân tộc chúng ta vốn coi trọng truyền thống gia phong, thế mà giờ đây, học sinh ngay từ tiểu học đã được dạy rằng phải tố cáo ông bà, cha mẹ, chú bác mình nếu thấy họ “phản cách mạng”. Những tâm hồn non nớt nhất chính là mảnh đất màu mỡ để Đảng gieo hạt giống đầu độc. Nhìn cảnh cô bé cậu bé đứng lên “đấu tố” chính cha mẹ mình, mọi người đều rụng rời kinh khiếp. Thế là “phong trào đấu tố” thời xưa ở Bắc kỳ đã được Đảng CS kéo lê vào Nam kỳ. Không khí hoảng loạng, sợ hãi lan đến mọi gia đình. Xóm giềng, bằng hữu khi xưa thân thiện nay đều ngần ngại, cảnh giác nhau, sợ lỡ miệng nói ra điều gì “phật ý Đảng” là đêm hôm ấy, đám bộ đội cô hồn sẽ mò vào bắt bớ, tống giam cả nhà. Chính sách gây chia rẻ, đấu tố này thật thâm độc. Có vậy, cái Đảng cướp bất lương này mới dễ bề nắm đầu nhân dân. Ôi nhớ lại thời gian ấy, con người còn thua con vật, thật khủng khiếp !
Sau ngày bị tên VC hãm hiếp, Gia Thư chính thức sống trong vòng kiềm tỏa và đe dọa. Ngôi nhà biệt thự đường Tú Xương trở thành điểm đến thường xuyên của bè lũ cướp ngày. Chúng mặc nhiên hoạnh hoẹ, bày ra đủ trò để trấn áp tinh thần hai mẹ con nàng, nhằm cướp nhà và cướp tình. Bà Lê ruột gan héo hắt, nước mắt chảy ngược vào tim. Tiếng thét oan khiếp hôm nào của Gia Thư luôn ám ảnh bà mọi đêm. Còn nàng thì sao ?
Thưa qúy vị, tháng 4/ 1997, kỷ niệm 22 năm ngày Quốc hận, tôi hân hạnh được tiếp kiến trung tá Đoàn Minh Bảo, chỉ huy trưởng tiểu đoàn 23 Dù. Ông là người có mối quan hệ thâm sâu với gia đình Đại tá Mạnh, là bạn đồng khóa 7 Võ bị Đà Lạt ( mãn khóa 12/ 1952 ). Tính cách điềm đạm, cởi mở, ông đã cho tôi nhiều thông tin qúy báu về cuộc đời mẹ con Gia Thư sau ngày mất nước.
“tôi khi ấy đang bị giam ngoài Thanh Hóa, nhà cửa chúng cướp hết, cả gia đình mấy chục người bị đày đi kinh tế mới. Trước khi ra đi, bà nhà tôi vẫn thường ghé thăm bà Đại tá. Nhìn hai mẹ con xơ xác, bà nhà tôi cầm lòng không được, dúi cho vài ba ký gạo. Của cải trong nhà lần lượt bán hết, hai mẹ con chỉ còn vài ba bộ quần áo. Bọn công an ngày nào cũng đến quấy nhiễu, đặc biệt thằng phường trưởng, hắn luôn tìm mọi cách giam giữ Gia Thư. Tội nghiệp con bé, phải chịu bao trò dã man thú tính của chúng !”
Đúng như thế, kể từ ngày bị cưỡng dâm tàn bạo, cứ vài ngày một tuần, tên Sết lại mò đến hòng “tống tình” nàng. Mẹ góa con côi, không nơi nương tựa, đành tìm mọi cách thủ tiết. Tên bạo dâm VC không những chỉ làm hại mình Gia Thư, hắn và đồng bọn còn tìm mọi cách vu oan giá hoạ cho nhiều gia đình khác để tìm cớ chiếm đoạt thân xác những nạn nhân mới. Thế nhưng, Gia Thư là con mồi “thơm” nhất. Hắn vẫn lấy làm lạ, tại sao chỉ còn ăn bo bo độn, mà “body” Gia Thư vẫn quyến rũ thế ! Hiếp một lần chưa sướng, hắn còn muốn biến nàng thành “nô tì” dài dài.
Một đêm nọ, hắn và bè lũ kéo nhau đến nhà bà Lê để “điểm danh”. Sắp đặt trước, chúng kéo bà Lê về phường, để lại mình Gia Thư. Biết mình gặp đại họa, bà Lê nhất quyết không đi. Thế là chúng giở mặt cô hồn các đảng, xông vào hiếp tập thể hai mẹ con. Đêm kinh hoàng đượm đầy tiếng la thét ai oán. Bao người qua đường nghe thấy nhưng đều nuốt hận vào trong. Mối thù càng sâu nặng. Bà Lê chỉ vừa 45, dáng vẻ vẫn hấp dẫn, dù hơi còm nhom. Thế là 7 tên dâm tặc, noi gương “bác”, nhảy vào đè “hai đồng chí nhân dân” xuống, cách nhau mấy ô gạch, mặc sức giở trò dâm ô. Chúng xé tan nát hai bộ đồ bạc màu của nạn nhân ra, thay nhau thực hiện hành vi đồi bại. Tên ở ngoài cảnh giới, một tay cầm súng dài, tay kia cầm “súng ngắn” đang “lên đạn” chờ “giao ban”. Tên Sắt gian tặc là tên cầm đầu đồng thời “nội lực hiếp” hăng nhất. Chúng đè hai mẹ con ra chơi đủ kiểu, hết tên này rồi tên khác. Tiếng la hét thảm thương dần nguội lạnh. Những nạn nhân đã kiệt sức. Đau đớn quá ! Và tên Sắt ra lệnh lôi hai mẹ con dậy, bắt họ há miệng “thổi kèn” mình, chỉ mình hắn. “Chúng mày mà mút bùi ông không sướng thì chết”. Gia Thư và bà Lê sau khi bị hiếp tập thể, chỉ còn như cái xác không hồn. Mọi phản kháng, chống cự của họ đều bị vô hiệu hóa dễ dàng bởi những tên cuồng tặc say máu. Tên Sắt banh miệng Gia Thư ra, ấn “kèn” vào. Một lần nữa, Gia Thư phải qùy dưới chân một tên súc sinh để thực hiện hành động dơ bẩn nhất. Tuy “đồ chơi” của tên dã thú này chỉ như của em bé nhưng nàng đã lợm miệng vì mùi hôi thối nồng nặc của nó. Hắn nắm đầu nàng, ấn hạ bộ vào, miệng nhịp “một…hai…một…hai”. Nước mắt nàng chảy xuống ướt đẫm dương vật hắn. Sau đó, hắn đẩy đầu nàng ra, ấn đầu bà Lê vào. Chắc chưa đã, hắn bắt hai mẹ con cùng liếm dọc theo “củ dưa chuột” của hắn. Lần đầu tiên, mẹ con bà Lê cùng qùy dưới chân một tên hạ đẳng để cùng thực hiện một hành vi. Hai mẹ con áp sát đầu vào nhau, tóc tai rối bời. Hai cái lưỡi nhiều lúc chạm nhau, gây một cảm giác kỳ cục và cay đắng. Tên đốn mạt nhìn lên hình “Bác” đang treo trên tường ( tất cả mọi nhà đều phải treo ), nhếch “mồm” cười đểu giã, ngụ ý nhờ có “chính sách tàn độc” của Bác mà “chúng cháu” mới “thoải mái” như ngày nay. Trong hình, “Bác” nhe răng lên cười “cố chơi nữa đi các chú, Bác chẳng may ngủm sớm, các chú đụp thay phần Bác”. Thế rồi, chẳng bao lâu, một dòng “sữa” lỏng lét ( chắc do ăn nhiều mà không đủ chất ) của “anh bộ đội cụ Hồ” xả vào mặt mày hai mẹ con như vòi sen. Những tràng cười man ri mọi rợ vang lên. Sau đó, khi những tiếng sặc sụa chưa kịp dứt thì lập tức, một đống “que củi” “made by Ho Chi Minh” đang chực chờ xung quanh lập tức táp vào. Thế là lần này, thay vì cùng đám bạn chiến hữu, bà Lê cùng cô con gái ruột, thay vì được mãn nguyện “làm nhạc công”, lại bị qùy dưới chân một đám ô hợp ( thay cho đám đĩ đực khi xưa ), banh miệng, nhắm mắt mà “thẻn kồi”. Ôi ! nhục nhã và cay đắng biết nhường nào ! Đêm đó, hai mẹ con “được bồi bổ bằng những tràng sữa” giặc thù. Sau khi thỏa mãn thú tính, bọn chúng phe phẩy bỏ đi, có tên còn quên gài cả nút quần, bỏ lại hai cái xác thối rữa về tinh thần. Những bợn tinh chảy dài trên miệng hai mẹ con. Dù già hay trẻ, trong hoàn cảnh này, chẳng người phụ nữ nào “còn đủ” dũng khí để mà “tận hưởng hương vị ngọt ngào”, chẳng ói ra mật là may lắm rồi…
Bà Lê quờ quạng bàn tay lau đi những dòng tinh khô cứng trên mặt con gái. Gia Thư ngẩng mặt lên trời, thở từng cơn nặng nhọc như người hấp hối. Hai mắt nàng từ từ khép lại và ngất đi. Bà Lê lồm cồm bò dậy, lết vào phòng ngủ, lôi tấm ra giường ra. Trong tư thế lõa thể, bà trèo lên ghế, móc tấm ra qua chốt quạt trên trần, cột lại làm thành một dây thòng lọng. Xong bà qùy xuống trước mặt con, mọi vẻ thảm não và tuyệt vọng đều hiện lên ánh mắt. Đó là cái nhìn của trân trối và bi ai. Một giọt tinh trào ra, rơi lỏng tỏng trên miệng bà. Bà nhìn lên bức di ảnh Đại tá Mạnh, lờ đờ như bông hoa đang tàn úa. Bà không còn nước mắt để khóc nữa. Đêm nay là quá đủ cho thanh danh và nhân phẩm của một con người, chứ chưa nói đến một quá phụ quyền qúy như bà. Lẽo đẽo leo lên ghế, bà Lê nhanh tay tròng thòng lọng vào đầu, như muốn nhanh chóng vĩnh viễn quên đi thảm cảnh kinh hoàng vừa xảy ra…
“Mẹ ơi… đừng mẹ ơi…huhuhu”, tiếng rên thảm thiết của Gia Thư làm bà Lê chồn chân. Bà quay lại nhìn con, đứa con thân yêu bé bỏng đang nằm dưới kia trần trụi như mình, sức tàn lực kiệt đến nổi không bò dậy được, chỉ còn hỗn hển vài ba hơi tàn úa. “Mẹ ơi…đừng… đừng… bỏ con…huhuhu”, tiếng khóc nức nở quặn lòng của Gia Thư như vang dội tâm thức bà luật gia. Tiếng khóc như thể tiếng gào, bất lực trong cơ thể bất động. Nàng chẳng còn chút hơi sức nào để ngăn chặn mẹ mình, ngoài vài ba tiếng réo gọi từ bản năng vốn chứa chan tình mẫu tử. Bà Lê đắn đo. Giờ đây, bà đứng trước hai lằn ranh sinh tử, thật mong manh, chỉ cần bà nhón chân một bước, mọi thảm kịch sẽ kết thúc với bà nhưng hỡi ôi, nó nào đã buông tha bé Thư đáng thương đang vẫy vùng cầu cứu ?! “không, mình không thể chết được. Không thể bỏ bé Thư lại được. Chúa ơi, Đức Mẹ ơi, Thánh Thần ơi… con đuối quá rồi… đuối quá rồi…huhuhu”. Bà Lê vừa khóc vừa đưa hai tay lên nắm sợi dây ngay cổ. Gia Thư tan nát trái tim, hồn siêu phách lạc, cô sợ mẹ mình đang “kinh động” sẽ làm bậy…
Thế nhưng như được Ơn Trên soi sáng, bà Lê từ bỏ ý định dại dột kia đi. Bà tụt xuống, ôm con mình. Hai mẹ con ôm nhau khóc nửa nở như chưa bao giờ khóc. Trời đất bỗng nổi cơn thịnh nộ, sấm chớp đánh vang trời nhưng lại chẳng có giọt mưa nào, phải chăng tiếng khóc ai oán của hai mẹ con bà Đại tá là trận mưa thấm đẫm nhân gian, nhuộm đầy máu, oan khốc và bi thảm nhất ?
“khăn tang nào che ngang đầu những kiếp người một đời giông bão ? trong binh lửa, giữa oán thù hằng cầu mong đến khi bình an… Ai đâu ngờ, sau tiếng súng, đời lại thêm một thời nát tan. Non sông buồn, đã điêu tàn, thêm máu lệ chứa chan một lần…” ( nhạc phẩm “TÔI CỐ BÁM” – nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn )
Đầu những năm 90, chính quyền CS bắt đầu mở cửa cho Việt kiều về nước. Một số ít bắt đầu lục tục về thăm quê hương, dù trong lòng vẫn thấp thỏm nơm nớp lo âu. Chỉ cách đây không lâu, chúng còn gọi họ là “bọn phản bội tổ quốc” ( ?! ). Trong số ít người tiên phong ấy, bạn tôi, trung úy Đồng Khôi Nguyên, tiểu đoàn 5 Thủy quân lục chiến, có kể lại một câu chuyện cảm động tại quê nhà như sau :
“Đầu năm 1992, mình về thăm Sài Gòn. Đi trên đường phố, lòng dạ không khỏi xốn xang. Thủ đô năm xưa giờ đói nghèo lạc hậu không thể tả. Đường phố bát nháo, thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe hơi. Đa số dân đi xe đạp hoặc khá hơn là ba chiếc Dame cũ. Ai cũng ốm tong ốm teo, mặt mày hốc hác. Người buôn gánh bán bưng tràn lan khắp đầu đường cuối hẻm. Có một lần, mình dẫn vợ con vào một quán phở. Đang ăn thì có một ông bán nhang, cụt một giò, lê lết bước vào mời chào. Mình ngoắc ông ta lại, định biếu một số tiền nhưng trời ơi, khi lại gần mới nhận ra, đó là trung tá Lê Nguyên Minh, tiểu đoàn trưởng cũ của mình. Mình mừng quá ôm chầm lấy ông. Nhìn vị chỉ huy tàn phế, tóc tai bạc trắng, mình không thể ngăn được nước mắt. Mình mời ông ăn một tô phở đặc biệt, nhìn dáng vẻ của ông, mình biết ông rất nghèo khổ. Ôi vị chỉ huy anh dũng ngày nào, giờ tàn tạ như thế sao ?! Mình hỏi “trung tá vẫn nhớ em chứ ?”. Ông nheo mắt nhìn mình, có lẽ thời gian đã xóa mờ tất cả. Mình nói “em là trung úy Đồng Nguyên Khôi, trung đội trưởng trung đội 2 tiểu đoàn 5 Thủy quân lục chiến của trung tá nè. Hồi đó đánh trận Cổ Thành, lúc trung đội 2 Phượng Hoàng của em bị bao vây, trung tá đã nhào vô kéo em đang bị thương, lôi ra ngoài đó… trời, trung tá không nhớ em sao ?” vừa nói mình vừa muốn khóc. Vợ con, mọi người trong quán đều dòm mình nhưng mình chẳng quan tâm ai cả. Lát sau, trung tá nói “A, cậu Khôi “cắn vá” phải không ?”. Mình mừng rỡ kêu lên “dạ đúng rồi, em nè trung tá” ( trung úy Khôi, hai tay đều bị “cắn vá” ). Nước mắt tuôn rơi, mình xúc động quá, sau đó mời trung tá ra một quán cà phê, hai tướng sĩ cùng tâm sự. “nhìn trung tá bây giờ, em đau lòng quá !”. Trung tá cười buồn “biết sao bây giờ hả cậu ? Mình cũng mừng cho cậu cũng như những anh em khác đã được an cư lạc nghiệp”. “Trung tá bị thương năm nào vậy ?”. “Sau khi VC chiếm Sài Gòn, mình bị chúng đưa ra ngoài Bắc học tập. Khi đó, thấy chúng đối xử tàn nhẫn với anh em mình quá, mình chịu không nổi đứng lên phản đối. Mình nói “các ông là đồ tàn ác, bịp bợm, xảo trá, nói là giải phóng dân miền Nam, nhưng tôi chỉ thấy các ông biến dân chúng tôi từ cơm no áo ấm đến thê lương điêu tàn như bây giờ. Giải phóng là như thế này hả ?”
Thấy thế, chúng bắt mình gia nhập toán gỡ mìn, chỉ với một cây sắt và một cây xẻng. Với hình thức bức tử ấy, mình bị như thế này cũng là may rồi, nhiều anh em, xác đã không còn nguyên vẹn. Sau đó, khi được thả ra, mình đi bán nhang đến tận bây giờ”. “Sao trung tá không làm đơn xin H.O. ?”. “Mình bị giam chưa tới 2 năm thì bị tật nguyền rồi nên đâu đủ thời gian 3 năm”. Mình bùi ngùi cho thân phận trung tá, vị chỉ huy dũng cảm ngày xưa. “nhiều anh em trong tiểu đoàn mình đang định cư bên Mỹ, khi về đó, em sẽ kêu gọi họ đóng góp giúp đỡ trung tá”. Trung tá cười “cám ơn cậu, mình khổ thì không sao, chỉ tội vợ con. Nếu được thì nhờ các cậu cũng giúp cho anh em quân đội mình, biết bao người còn thảm cảnh hơn tôi, lây lất ngày đêm ngoài đường phố, con cái bị cấm đến trường, ngu dốt, thất học. Và nên nhớ, hãy luôn tự hào, chúng ta đã từng là lính Việt Nam Cộng Hòa”. Sau khi giúp một ít tiền cho trung tá, mình cáo biệt ra về. Sau đó, mình vận động anh em gởi tiền đều đặn về cho trung tá và một số chiến hữu khác. Năm 96, Trung tá qua đời”.
Xin cúi mình trước anh linh Trung tá Minh và những tử sĩ vô danh đã hy sinh cho Tổ quốc. Họ sẽ mãi mãi không bao giờ bị lãng quên.