Tà Áo Nơi Biên Cương - Chương 6: Cô giáo vùng cao (1)
Trời đã tối om như mực, đèn chiếc xe Win dã chiến chuyên chạy địa hình leo dốc ở vùng biên cương xa xôi hẻo lánh núi đồi chập chùng này chỉ như một con đom đóm nhỏ nhoi giữa đất trời mịt mùng.
A Dếnh dừng xe dưới một chân dốc, co một chân xuống trước rồi cả người nhẹ nhàng đứng bên cạnh chiếc xe. Khoa cũng xuống theo, từ lúc ngồi sau xe A Dếnh đến giờ đã gần 3 tiếng đồng hồ, đây không phải là lần xuống xe đầu tiên. Quãng đường từ thị trấn Sìn Hồ về đây nói xa thì không phải là xa, nhưng đường đi là vô cùng khó khăn, nằm ngoài sức tưởng tượng của một người thuần thành phố như Khoa. Đã vài lần, Khoa và A Dếnh phải xuống đẩy bộ để xe leo lên một cái dốc bằng đường đất, đứng dưới chân dốc còn không nhìn thấy đỉnh dốc. Có đôi lần, xe phải lội qua một con suối nông, nước ngập đến lưng bánh xe. Rồi gặp phải một con suối sâu, người và xe phải lên một chiếc bè mảng kết bằng những cây gỗ khô của người dân địa phương mới qua được. Cả người Khoa mềm nhũn, mệt đến nỗi quên đi cả cảm giác đói lả trong người, chỉ muốn thật nhanh đến nơi, nhưng có cảm giác như càng đi càng xa.
Trời đã tối, những bụi sương trở nên đậm đặc hơn, đọng trên đám tóc bồng bềnh kết thành hạt nhỏ li ti, hơi thở cũng trở nên nặng nhọc hơn bởi ở độ cao trên 1.500m so với mặt nước biển này, không khí đã loãng đi nhiều, Khoa chưa thể quen với điều này ngay được. Duy chỉ có A Dếnh là vẫn bình thường, vẫn phăm phăm, vẫn tràn đầy năng lượng, vẫn nói vẫn cười như đây chỉ là một cuộc dạo chơi mà thôi.
– A Dếnh, sắp tới nơi chưa? Giờ lại phải đẩy xe lên đỉnh dốc à? Mà dốc cao không, sao tôi nhìn không thấy đỉnh.
A Dếnh dựng một bên chân chống, lấy trong túi nả treo lủng lẳng ở tay lái xe máy ra một cái bidong nước bằng nhôm, cũ kỹ giống như là từ hồi chiến tranh Pháp thuộc để lại:
– A Khoa uống nước đi. Hết cái dốc này là đến cái trường của cô giáo Thương rồi, còn nhà tao ở cái đỉnh đồi bên kia cơ. Giờ để xe ở đây, tao đưa A Khoa lên gặp cô giáo Thương rồi tao phải về không cha mế tao lo.
Khoa căng mắt, căng tai nghe A Dếnh nói, mới gặp A Dếnh từ hồi chiều, trải qua cung đường đặc biệt của vùng cao biên giới, Khoa cảm nhận được từ trong trái tim mình con người đôn hậu, thật thà, chất phát, nhiệt thành của A Dếnh, điển hình cho thanh niên, cho đồng bào dân tộc vùng cao Tây Bắc, sự mệt mỏi trong người chợt tan biến như có phép lạ thần kỳ:
– Sao A Dếnh lại gọi tôi là A Khoa?
A Dếnh nói như chuyện chẳng có gì lạ cả:
– Mày chưa có vợ như tao, tên mày phải là A Khoa chứ.
Rồi cả hai cùng cười vang, tiếng cười làm tiếng những con thú nhỏ, nhưng côn trùng rả rích bên cạnh sườn núi im bặt. Khoa nói tiếp:
– A Dếnh khỏe thật đấy, chẳng thấy A Dếnh mệt gì cả. Tôi mệt muốn đứt hơi rồi.
– Ha ha ha! Tao như con thú trên rừng, như con ngựa tốt nhất bản Mông, như con trâu cầy 3 mẫu nương 1 ngày. Làm sao có thể mệt được. Ha ha ha ha !!!! Đi thôi A Khoa, nhanh lên!
Nói rồi, A Dếnh phăm phăm nghiêng người về phía trước, thảo bộ bắt đầu leo dốc, hay tay cầm 2 cái ba lô nặng trình trịch của Khoa. Đi vài bước chân, A Dếnh lại ngoảnh lại nhìn, thấy Khoa nặng nề bước từng bước, vừa đi vừa thở phò phò.
Dốc cao tưởng như không thấy đỉnh, mãi gần mười phút sau mới lên đến nơi, Khoa chống hai tay vào đầu gối thở dốc lấy lại sức, chưa kịp ngửng mặt lên nhìn trời đất đã thấy A Dếnh nói rõ to:
– A Khoa nhìn kìa!
Khoa ngượng nghịu ngẩng mặt lên nhìn theo hướng chỉ tay của A Dếnh, đó là một mỏm đất còn cao hơn cả đỉnh dốc này. Nhìn rõ nhất là ánh lửa bập bùng rất to, có lẽ là một đống lửa được đốt bằng củi, giống như lửa trại của đám thanh niên miền xuôi. Sau ánh lửa là lúp xúp 3 dẫy nhà ngang thấp lè tè xếp theo hình chữ U, bên ánh lửa có lô nhô rất nhiều người, có lẽ là đang múa hát.
– Gì vậy A Dếnh?
A Dếnh như nhớ ra một điều gì đó:
– Trường Pa Thăm của cô giáo Thương đấy. Tao nhớ ra rồi, hôm nay là liên hoan văn nghệ tình quân dân. Vậy mà tao quên mất. Đi thôi, chắc cha mế tao cũng ở đây rồi.
Chưa để Khoa trả lời, A Dếnh đã chạy đi trước, mang theo một cái ba lo quần áo của Khoa, để lại cho Khoa cái ba lô máy ảnh nhỏ hơn. Khoa nói một mình:
– Liên hoan văn nghệ tình quân dân??? Cũng vui đấy chứ nhỉ!
Nói xong, Khoa khoác lên vai chiếc balo máy ảnh, bắt đầu leo lên triền dốc thoai thoải để đến với điểm trường. Trong lòng Khoa hồi hộp lạ, bởi chàng biết, bên ánh lửa bập bùng ấy sẽ có mẹ, mục đích chính của chuyến đi này, người mà đã 8 năm nay Khoa chưa từng gặp 1 lần, chỉ được nhìn mẹ qua các bức ảnh mẹ gửi về hàng năm.
Tiếng điệu nhảy múa sạp đập vào tai Khoa khi anh đứng trước một tấm biển lớn, nhìn mờ mờ thấy dòng chữ: “Điểm trường vùng cao Pa Thăm”. Múa sạp là một điệu múa đặc trưng của đồng bào dân tộc Thái, theo điệu nhạc lý “Sòn sòn sòn đô sòn, sòn sòn đô rê, rê rê rê mí đồ rê, rê rê mí rê đô là, đô đô là đô là son mì, son mì son mì son fa, sòn là đô rê” kết hợp với tiếng phát ra từ hai thanh tre, nứa va chạm vào nhau. Các cô gái, chàng trai người Thái nhảy bằng một chân, chân nọ gối chân kia vào khoảng trống giữa các lần nhịp tre. Âm thanh vui nhộn đó đã cuốn hút Khoa, cổng trường mở toang, mà thực ra là không cổng, chỉ có 2 cột trồng hai bên, tấm biển nối từ cột này sang cột nọ mà thôi.
Theo bản năng của người làm nhiếp ảnh, Khoa loẹt roẹt mở khóa ba lô lôi máy ra ra, đeo lủng lẳng trên vai và bắt đầu tác nghiệp.
Trong khung hình của Khoa, các cô gái Thái mặc áo cộc tay trắng, trên vai cô nào cô nấy cũng có một chiếc khăn mỏng mầu hồng, hai tay nắm lấy hai đầu của chiếc khăn, váy mầu đen dài đến gần gót chân. Họ nhịp đều nhảy từ bên này sang bên kia, rất đều nhau và không bị va chạm với hai thanh tre đang gõ vào nhau bởi hai hàng người xếp hai bên.
Ở bên ngoài nhóm múa sạp, rất nhiều người dân ăn mặc kiểu dáng khác nhau, cùng rất nhiều anh bộ đội biên phòng mặc đồng phục mầu xanh đang giơ tay múa, uốn lượn lên bầu trời theo điệu xòe hoa. Chẳng ai để ý đến một anh chàng thợ ảnh xuất hiện ở vòng ngoài.
Khoa cũng để ý nhưng không thấy mẹ đâu, cậu lách tách rất nhiều kiểu ảnh, ánh lửa bập bùng tí tách đượm cháy.
Rồi điệu múa sạp cũng kết thúc, các thanh tre, nứa được xếp vào một bên, đám người lại tản ra để nhường một vòng tròn bên cạnh đống lửa.
Rồi Khoa thấy có khoảng chục chàng trai người Mông, mặc bộ quần áo đen giống như A Dếnh bước vào, trên tay họ mỗi người một cây Khèn. Khèn Mông độc đáo bởi hình dạng, cấu tạo và chức năng tạo âm thanh của nó. Âm thanh được phát ra theo cả luồng hơi thổi ra, hít vào. Khèn có 6 ống làm từ 1 loại trúc gắn trên 1 cái bầu bằng gỗ khoét rỗng, kết nối bằng nhựa cây và vỏ cây đào rừng. Thứ duy nhất từ kim loại là lam đồng (lưỡi gà). Các chàng trai người Mông người biết đi rừng, biết săn bắt thú, biết làm nương rẫy, còn có một thứ không thể không biết, đó là thổi Khèn. Thổi Khèn để tỏ tình, thổi càng hay thì càng có nhiều cô gái say mê và chịu theo về làm vợ. Thổi Khèn để thể hiện tấm lòng của mình với các vị thần linh, với các ma nhà và ma rừng. Tiếng Khèn sẽ theo chàng trai người Mông suốt vòng đời của mình.
Bên ánh lửa rập rình, tiếng nổ lách tách, là tiếng Khèn Mông trầm trầm nhưng vang xa khắp núi rừng. Tiếng Khèn phải đi kèm với múa Khèn. Vừa thổi Khèn, các chàng trai người Mông còn phải múa Khèn, co một chân lên rồi xoay một nửa vòng tròn, lại đảo chân, lại quay ngược lại, cứ như vậy tạo nên điệu múa Khèn độc đáo của người Mông. Chàng nào múa dẻo, quay được vòng lớn, chân cong càng nhiều càng tạo ra được điệu múa Khèn đẹp.
Các cô gái người Mông mặc áo sặc sỡ hơn các chàng trai rất nhiều, trên áo thêu đủ loại mầu sắc xanh đỏ tím vàng, trên đầu còn vấn một chiếc khăn dầy đủ mầu sắc nữa. Trái ngược với các chàng trai chỉ một mầu đen đen, từ cái áo đến quần ống rộng, thêm cả chiếc mũ nồi cũng mầu đen nốt. Chàng cô gái tủm tỉm cười một mình ra vẻ e thẹn khi nhìn thấy một chàng trai múa Khèn đẹp, có lẽ trong đầu các cô gái đã chọn cho mình được một chàng trai ưng ý.
Khoa nhìn thấy, trong độ chục chàng trai múa Khèn ấy, có một người mà anh quen biết, đó là A Dếnh. A Dếnh múa rất đẹp, rất điệu và rất mềm, vừa thổi Khèn, vừa múa, đôi mắt liên tục nhìn về một cô gái Mông đứng nép sau đám bạn e thẹn nhìn lại A Dếnh. Vậy là Khoa lại có thêm rất nhiều kiểu ảnh đẹp.
Sương đã dầy hơn làm áo ai cũng lấm tấm ướt, có lẽ trời đã về đêm, điệu khèn đã kết thúc, khoảng trống giữa sân trường lấy đống lửa làm trung tâm được nới rộng ra, có lẽ tất cả mọi người đều đang chờ tiết mục chính của buổi liên hoan văn nghệ đêm nay. Không gian im phăng phắc, chỉ có tiếng lửa tí tách mà thôi.
Rồi tất cả hướng ánh mắt của mình về phía dẫy nhà ngang, bỗng không thấy người nhưng thấy tiếng hát trong veo, cao vút của một cô gái cất lên:
“Khi nghĩ về một đời ngườiTôi thường nhớ về rừng cây.
Khi nghĩ về một rừng cây
Tôi thường nhớ về nhiều người,
Trẻ trung như cụm hoa hồng,
Hồn nhiên như ngàn ánh lửa
Chiều hôm khi gió về!”
Hát đến đây, một người phụ nữ xinh đẹp trong bộ quần áo dài mầu trắng truyền thống Việt Nam bước từ sau tấm phông mầu xanh bước ra.
Có tiếng thì thào quanh Khoa:
– Cô giáo Đài Trang!
Cô Đài Trang xinh đẹp như một nàng tiên, mái tóc cô mượt mà buông thõng đến tận mông, chiếc áo dài bó sát làm bộ ngực cô căng tròn phô trước ra phía trước. Khéo léo ở vùng eo chiết vào như làm vòng mông nảy nở hơn, tà váy bị gió vùng cao làm hất tung sang một bên, ai cũng trầm trồ bởi vẻ đẹp của cô.
Khi cô cất tiếng hát mộc đoạn thứ 2:
“Cây đã mọc từ thuở nàoTrên đồi núi thật cằn khô,
Cây có hiểu vì sao
Chim thường kéo về làm tổ
Và em như cụm lan mọc
Từ những cành cổ thụ già kia!”
Thì cũng là lúc ở phía sau tấm bạt, chia làm 2 bên, mỗi bên 3 cô giáo cũng mặc áo dài thướt ta, vung tay múa thật đẹp, các cô uốn lượn rồi gặp nhau ở chính giữa vòng tròn, phía trên cô giáo Đài Trang.
Các chú bộ đội, bà con dân tộc Mông, dân tộc Thái cùng một vài dân tộc khác cùng ồ lên thích thú bởi dáng múa thướt tha, mềm mại của các cô giáo.
Có lẽ, đối với bà con nơi đây, các cô giáo không phải ai xa lạ mà hết sức thân thuộc. Có thế nên họ mới buột miệng nói ra từng tên cô giáo:
– A, cô Tố Uyên mặc áo dài tím kìa.
– Cô mặc áo dài mầu hồng nhạt kia là cô Hạ Vy đấy.
– Cô Bích Thảo múa đẹp làm sao.
– Cô Thu Huyền dạy tao kìa. Cô Khánh Linh, Cô Như Hoa nữa. Các cô hôm nay như những nàng tiên.
Khoa lách tách bấm máy, góc máy tập trung vào những tà áo dài lúc ôm sát mông các cô giáo, lúc bay lên, lúc dập xuống theo nhịp các cô múa, theo từng cơn gió vùng cao.
Khi cô giáo Đài Trang vút giọng của mình lên một tông nữa đoạn thứ 3 của bài hát:
“Và tôi vẫn nhớ hoài một loài câySống gần nhau thân mới thẳng
Có một cây là có rừng
Và rừng sẽ lên xanh rừng giữ đất quê hương!”
Thì ở bên trong, có lẽ là nhân vật chính của bài múa hát này xuất hiện, chưa ai nhìn thấy mặt bởi trên tay cô còn một chiếc nó lá đặc trưng của vùng đồng bằng Sông Hồng.
Cũng diện trên mình một bộ áo dài, nhưng khác biệt so với các bộ áo của các cô giáo đã xuất hiện trên sân khấu. Tại phần ngực của chiếc áo dài mầu trắng, có thêu một cây hoa lan rừng mầu đỏ nhạt, điều đó thu hút ánh nhìn của khán giả, trong đó có nhiếp ảnh gia Khoa. Khoa chụp lấy tiêu cự bộ ngực của cô gái cầm nón làm điểm nhấn, làm trung tâm cho bức ảnh.