Tà Áo Nơi Biên Cương - Chương 18: Chợ phiên Tả Sín Chài (2)
Hết đoạn dốc đồi, lên đến Trung tâm chợ. Khoa bàng hoàng vì quy mô chợ quá lớn so với sức tưởng tượng của cậu về một chợ vùng núi cao. Ở dưới chân đồi chỉ nhìn thấy một mé, cũng không thấy lớn, nhưng khi lên đến nơi rồi mới thấy, nó quá rộng và quá lớn. Giống như một trung tâm thương mại sầm uất nhất thủ đô. Người người nườm nượp chen lấn nhau xem chợ, giống như các lễ hội đình chùa đầu năm. Người chơi chợ thì đa dạng vô cùng, đủ các loại mầu sắc, đủ các loại dân tộc. Ngoài đồng bào dân tộc địa phương, có không ít người Kinh lên đây du lịch, khám phá. Lại có có cả người nước ngoài với cái ba lô to đùng ở sau lưng nữa. Tất cả tạo thành một bản hòa ca đa mầu sắc, đa dân tộc.
Người đồng bào nói không có sai, chợ phiên không chỉ là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa, sản vật. Nó còn là nơi giao thoa các nên văn hóa, các dân tộc, nơi đồng bào kết tình đoàn kết, 54 dân tộc anh em chung một nhà, chung một nòi giống, không phân biệt sắc tộc, vùng miền, tiếng nói.
Người Dao bán hàng cho Tày, người Tày mua hàng của Sán Rìu, người Sán Rìu đổi gạo lấy gà của người Mông, người Mông bán ngựa cho người Thái .v.v. Cứ thế tạo nên một vòng tròn khép kín, cộng hưởng cộng sinh từ hàng ngàn đời nay.
Không giống như những cá nhân bán hàng lẻ dưới dốc, ở chợ trung tâm phân ra làm các khu vực riêng, với quy mô nề nếp hẳn hoi.
Khu đầu tiên khi Khoa vừa bước lên đoạn đỉnh đồi là khu bán nông cụ và dụng cụ gia đình. Ở đây người ta bầy bán các loại dao, dao thái rau, dao chặt thịt, dao đi rừng, dao đốn củi. Rồi lưỡi cầy, lưỡi hái, lưỡi phạt rãy. Rồi cuốc, thuổng, mai. Rồi kiềng bếp, xoong, nồi, thảu, dùi, mài .v.v. Có vài chục sạp bày bán những mặt hàng tương tự nhau như vậy.
Khu thứ 2 nằm ở mép đỉnh đổi, là nơi chuyên bán các sản vật địa phương, từ rừng sâu, từ đồi, từ vườn của đồng bào. Có bày bán la liệt các loại cây phong lan, từ to đến nhỏ, các loại hoa quả rừng đào mận, các loại củ rừng như măng, các loại cây phơi khô dùng để làm thuốc. Phải nói là vô cùng phong phú, phải là người bản địa sống lâu lắm mới biết hết được đây là những loại cây, loại củ, loại hoa, loại quả gì, tác dụng ra sao. Còn những khách du lịch như Khoa đây, họa hoằn lắm mới biết được một vài loại, phải hỏi người bán mới biết được tên.
Khu nọ nối tiếp khu kia, cũng không có ranh giới rõ ràng, tiếp theo, Khoa ghé thăm và chụp rất nhiều ảnh khu bán và trao đổi gia xúc, vật nuôi. Đồng bào bán ngựa, bán trâu, bán dê, bán gà, bán chó. Ngựa cũng có mấy giống khác nhau, giống dùng để thồ hàng, loại dùng để cưỡi, có cả giống ngựa nuôi để giết thịt. Duy nhất có một con ngựa mầu trắng, đồng bào chỉ bán cho người miền xuôi mua về để nấu cao, gọi là cao ngựa bạch. Gà cũng vậy, đồng bào miền này nuôi nhiều nhất là loại gà đen, con nào con đấy nen thủi từ đầu đến chân, đen cả lông, đen cả thịt. Lợn cũng có vài loại, nhưng con nào con nấy đều bé bé, chỉ nhỉnh độ đôi chục cân, mầu đen trắng, vàng, nâu có đỏ. Loại lợn bán được giá nhất là lợn mán nuôi thả, loại lợn này nhỏ tí, con to nhất chỉ khoảng 2 chục cân, 3 lông cắm chung một lỗ, da dầy cộp, lợn nuôi thả rông, ăn tự nhiên những gì nó kiếm được chứ đồng bào không cho ăn bao giờ. Nuôi cả năm, thậm chí 2 năm mới được một con mười mấy hai chục cân. Còn nhiều lắm, nhím, chồn, dúi, gà rừng, tê tê, chim rừng các loại, là những con mà đồng bào săn bắn, đặt bẫy được trong rừng sâu, rồi đem lên chợ phiên bán hoặc trao đổi những thứ mình cần.
Chưa hết đâu, ở chợ phiên, một khu không thể thiếu được, thu hút rất nhiều phụ nữ ghé thăm chính là khu bán quần áo, đồ trang điểm, phụ kiện. Phụ nữ người dân tộc tùy theo tộc người của mình đều cách chọn trang phục, phụ kiện đeo trên người riêng. Nhưng có một điểm chung của tất cả các dân tộc chính là trang phục truyền thống, được mặc trong các dịp trọng đại như đám cưới, đón Tết, Lễ đặt tên con, Lễ xuống rẫy, Lễ cúng Ma rừng, Ma nhà .v.v. là phải được làm thủ công, thêu dệt tỉ mỉ, người miền xuôi gọi chung là Thổ cẩm. Từ áo, quần, vòng vấn tóc, đai lưng đều được làm thủ công. Một bộ quần áo truyền thống của người phụ nữ Dao đỏ nếu 1 người làm từ đầu đến cuối phải mất gần 1 năm, ấy là họ tranh thủ những lúc nông nhàn, chưa tới mùa rãy, mùa nương. Nếu tập trung làm liên tục cũng mất đến 3 tháng trời.
Phụ nữ đồng bào thích đeo các vật trang trí bằng kim loại, chủ yếu là từ bạc. Họ quan niệm, bạc ngoài có tác dụng làm vật trang sức, còn có tác dụng tránh gió độc, tránh tà ma, mang lại sức khỏe và may mắn. Tùy từng dân tộc mà có những truyền thống mang kim loại khác nhau. Chẳng hạn như người Nùng thích đeo vòng bạc ở cổ, người Thái thích đeo vòng bạc ở tay, người Dao thích đeo hoa tai bằng bạc, người Mông đeo vòng bạc ở cổ chân.
Ngày nay, ở chợ phiên, những thứ quần áo, phụ kiện đó hầu như không phải để bán cho người bản địa, mà chủ yếu bán cho khách du lịch thập phương lên đây mua về chơi, khoe với bạn bè. Nguồn gốc cũng biến chuyển đi nhiều, tinh vi trà trộn giữa những loại do chính tay đồng bào làm là loại hàng công nghiệp nhập từ bên kia biên giới về. Ai tinh mắt lắm mới phát hiện ra.
Nếu khu bán đồ thổ cẩm và trang sức thu hút phụ nữ thì khu ẩm thực lại thu hút cánh đàn ông. Nói đến ẩm thực Tây Bắc, có thể tự hào rằng, không kém bất kỳ một nơi nào trên thế giới này. Phong phú và đa dạng vô cùng. Khoa nuốt nước miếng ừng ực khi đi qua các dẫy bầy la liệt vô số các loại đồ ăn thức uống. Mỗi sạp hàng bán một loại thực phẩm đặc trưng, sạp nào sạp nấy chật kín người, chen chúc nhau ngồi ăn, ngồi uống.
Để kể hết những loại thực phẩm được bán ở khu này có lẽ phải mất vài ngày mới hết. Nhưng có 2 thứ không thể không kể, ngon nhất, đông người ăn nhất. Thứ nhất đó là các món thịt luộc. Một nồi nước dùng to lớn trên bếp củi đượm sôi ùng ục, tỏa khói nghi ngút, đồng bào luộc tất cả các loại thịt mà mình bán, từ thịt lợn, tai lợn, mũi lợn, đầu lợn, lòng, dồi, tràng, gà đen cả con .v.v. Luộc chín đến đâu, chủ hàng vớt ra đặt chung lên sạp to tướng, lúc nào cũng tỏa khói nghi ngút, bay mùi thơm phức hấp dẫn thực khách. Ai thích ăn gì chỉ việc chỉ, chủ hàng khéo léo nhấc lên, cân rồi thái. Vừa thái vừa đưa tay lên tai vì đồ ăn vẫn còn nóng hổi. Thái ra đặt vào trong một cái tô, rắc lên một ít hành tươi thái nhỏ, rồi dưới lên đó một nước dùng từ chính nồi thịt luộc đang sôi cho hành vừa chín tới, bầy lên bàn với một bát chấm chẩm chéo cay cay, mặn mặn, bùi bùi, thơm thơm.
Thứ 2 đó là món Thắng cố. Thắng cố, một món ăn đặc sản, đậm chất dân tộc vùng núi Tây Bắc trải dài từ tận vùng Lào Cai – Yên Bái chạy dọc theo dẫy Hoàng Liên Sơn đến tận vùng Sơn La – Lai Châu. Cái tên Thắng cố từ đâu mà có, chẳng ai biết kể cả các thầy mo, thầy cúng, người đại diện cho các thần linh theo quan niệm của đồng bào, hiểu nhiều biết rộng, đông tây kim cổ, từ xưa tới nay, cũng chẳng biết. vì vậy Cu Zũng đương nhiên cũng chẳng biết rồi.
Thắng cố lấy ngựa làm nguyên liệu chính, nấu kiểu lẩu, hố lốn đủ các thứ thịt của con ngựa cho chung vào một nồi, nhưng thứ mà không thể thiếu được, thiếu nó người ta không gọi là thắng cố chính là nội tạng. Lấy bộ lòng già làm gia vị chính. Thắng cố gốc của đồng bào, phần lòng già giáp với lòng non phải để nguyên, không được rửa qua nước, không được lọc phân non (nậm pịa) của con ngựa. Chính vì vậy nồi thắng cố có mùi hơi thum thủm, thôi thối rất khó ăn nếu không quen. Nhưng ngày nay thì khác, phần đó được lọc bỏ đi, làm sạch nên không còn mùi khó ngửi đó nữa, mà thơm ngon, nức mũi giống như các món lẩu bình thường khác.
Hai món ăn kể trên, nếu không uống với rượu phí cả cuộc đời. Rượu đồng bào ngon lắm, cay lắm, nồng lắm, nặng lắm. Về quy trình nấu rượu cũng không khác với miền xuôi, nhưng khác ở nguyên liệu làm ra nó. Rượu đồng bào dân tộc phải là men lá ủ chín, gạo phải là loại nếp trồng trên nương. Rượu ra thế nào uống thế nấy, ngon hơn phải chôn dưới đất, cận âm vài tháng mới đào lên uống. Rượu nặng nhưng êm, đưa lưỡi, uống say nhưng không đau đầu, không bị tình trạng nôn thốc nôn tháo như rượu miền xuôi. Mà đầu chỉ quay quay, vòng vòng, hoa hoa mà thôi. Chẳng thế mà, có chàng trai dân tộc say mèm nhưng vẫn bò về được đến nhà dù cách cả chục quả đồi cao.
Như Cu Zũng đã từng kể cho các bạn nghe, chợ phiên không chỉ là nơi buôn bán hàng hóa, nông lâm sản địa phương mà còn là nơi giao lưu văn hóa, giao lưu giữa các dân tộc vùng Tây Bắc. Chính vì thế, một khu đất rất rộng phía bên kia sườn đồi là được dùng làm nơi tổ chức các trò chơi.
Ở nơi đó, các cô gái dân tộc súng sính đủ các sắc mầu, các chàng trai nhoẻn cười nếu nhìn thấy một cô gái cùng tộc mình xinh đẹp, đánh mắt đưa tình. Từng tốp người, bất kể dân tộc nào xếp thành từng vòng tròn chơi các trò chơi.
Chiếc đu quay cao đến cả chục mét ở chính giữa khu vui chơi đang bật hết bên này đến bên kia trong tiếng hò hét của đám đông bên dưới. Ở tyển đu quay, một chàng trai và một cô gái người Sán Rìu cong mông đẩy xích đu, sao cho xích đu bật cao nhất, đáp ứng sự cổ vũ của đám người bên dưới. Xích đu được làm bằng cây tre già nhất trong rừng, từ trụ đến giá đu, dây đu đều làm bằng tre, buộc lại với nhau chắc chắn bằng dây dứa rừng, mỗi lần bật đều phát ra tiếng cọt kẹt, cọt kẹt nghe mới vui tai làm sao.
Ở một đám đông khác, tiếng lách cách của các chàng trai cô gái dân tộc Thái trắng đang múa sạp, người cổ vũ cũng múa tay theo nhịp nhạc sòn sòn sòn đô sòn. Chàng trai gõ nhịp nữa, đập hai thanh nứa lại với nhau tạo nhịp cho các cô gái một tay vén váy lên cao một chút, chân đưa nhịp nhàng, uyển chuyển. Càng về cuối bài, các chàng trai như muốn thử tài các cô gái, họ nâng nhịp lên nhanh hơn, mạnh hơn để các cô gái lỗi nhịp và vấp phải thanh nứa. Nhưng không, nhịp nhanh thì nhảy nhanh, nhịp chậm thì nhẩy chậm, chẳng lỗi nhịp nào.
Ô kìa, trò chơi ném gòn sao thu hút người chơi đến vậy. Cả trai lẫn gái. Một cái vòng tròn nhỏ trên đỉnh một ngọn tre cao cao, người chơi cầm quả gòn, được bọc vải đỏ tay vung vung lấy đà vài vòng rồi quả gòn vút bay lên không trung, xa đến vậy mà tài chưa kìa, quả gòn bay qua vòng tròn sang bên kia. Mỗi lần như vậy, chàng trai, hay cô gái lại được một tràng vỗ tay vang dội cổ vũ tinh thần.
Lại nữa kìa, tiếng khèn Mông quen thuộc, ở một góc kia, các chàng trai Mông mặc quần đen đang khuỳnh chân múa khèn, tiếng khèn hòa với điệu múa làm một thật ăn ý. Vừa thổi khèn, chàng trai vừa liếc mắt đưa tình vào một cô gái Mông nào đó mà mình thích. Các cô gái thì e thẹn quay mặt đi, che đi vệt hồng trên má.
Một trò chơi nữa, mà chắc là chỉ còn ở chợ phiên Tả Sín Chài này lưu giữ được, mô tả lại cách giao tiếp của đồng bào kia xưa. Hai ống bơ được nối với nhau bằng sợi chỉ đỏ, cách nhau cả chục mét. Một chàng trai đang nói chuyện với cô gái, họ nói thì thầm chỉ để cho nhau nghe thấy. Đó chính là “điện thoại” của đồng bào đấy. Ngày xưa, đã từ lâu lắm rồi, có một tục lệ thế này. Nếu cô gái nào đến tuổi cập kê, muốn được rủ đi chơi thì sẽ tự làm một cái “điện thoại” như thế, một đầu cô để ở đầu giường buồng ngủ của mình. Một đầu cô để dưới chân nhà sàn, chàng trai muốn rủ cô đi chơi thì cầm một đầu ống bơ rồi gọi cô, hẹn cô đến một nơi nào đó. Nếu cô ưng, cô đồng ý thì cô sẽ tới điểm hẹn để gặp. Ngày nay, không còn duy trì tục đó nữa vì đồng bào cũng ít nhiều có điện thoại, trò chơi nơi chợ phiên này chỉ là mô phỏng tục xưa ấy mà thôi.
Còn nhiều, còn nhiều những thứ độc đáo khác diễn ra ở chợ phiên, tất cả đều lọt vào ống kính của Khoa, cậu háo hức chụp những bức ảnh đa sắc mầu ở nơi đây. Thấm thoắt mà cũng đến 10 giờ, đến giờ hẹn với hai chị Khánh Linh – Thu Huyền dưới bãi gửi xe, gửi ngựa để ra về. Khoa tiếc rẻ trở lại lối cũ khi chợ vẫn chửa tan.
Rồi Khoa lại đến đoạn dốc lên đồi lúc ban nẫy, cậu đi qua chỗ chị người Nùng bán nấm vừa rồi, cậu mỉm cười chào chị, chị cũng vừa đung đưa lưng mình ru em bé vừa cười chào lại cậu. Rồi Khoa giật mình vì tiếng gọi to:
– A, người miền xuôi đây rồi, người miền xuôi xuống đây rồi. Người miền xuôi để tao chờ lâu quá, tao muốn đi uống cái bát rượu ngô cay nồng lắm rồi.
Khoa nhận ra người vừa gọi, vừa vỗ vỗ vào hai vai mình chính là anh chàng người Tày bán con dúi đựng trong bao tải dứa lúc ban sáng mới lên đây. Khoa ngớ người hỏi lại:
– Ơ thế anh chưa bán xong con dúi à?
Anh chàng người Tày một tay dắt vợ, một tay cầm bao tải dứa, nhe răng cười:
– Tao chờ cái người miền xuôi xuống trả tiền con dúi cho tao mà. Trả tiền xong thì tao mới có tiền đi mua cái bát rượu ngô chứ.
Khoa kinh ngạc vô cùng:
– Ô, em có định mua dúi của anh đâu?
Người Tày xị mặt buồn:
– Cái bụng của người miền xuôi không tốt rồi. Vừa nẫy người miền xuôi bảo là lên chợ hỏi xem tiền rượu bao nhiêu rồi xuống đây trả cho tao mà. Tao đã hứa bán cho người miền xuôi, nên tao không bán cho người khác, tao vẫn chờ người miền xuôi mà. Vậy mà bây giờ người miền xuôi lại không mua nữa là thế nào. Người miền xuôi nói dối tao, nói dối đồng bào. Cái bụng của người miền xuôi không tốt. Tao không bán cho người miền xuôi con dúi rừng này nữa đâu. Người miền xuôi đi đi.
Nói xong, chưa để cho Khoa nói câu gì, anh chàng người Tày một tay xách bao tải dúi, một tay kéo vợ đi xuôi xuống chân chân đồi, khuôn mặt buồn không bút nào tả xiết. Lại đến phiên chợ sau, 1 tháng nữa, anh mới được uống bát rượu ngô cay nồng, được say lả tả đến nhìn một ông mặt trời thành hai ông mặt trời.
Khoa thất thần. Đúng, vừa ban nãy chính cậu đã nói là sẽ lên chợ hỏi xem tiền rượu hết bao nhiêu rồi xuống trả tiền cho anh dân tộc Tày. Cậu không ngờ, lời nói đùa ấy lại được đồng bào hiểu như một lời giao hẹn, một định ước, một cuộc mua bán thành công. Khoa không hiểu là đúng thôi. Bởi cậu dùng lòng miền xuôi đo lòng miền ngược. Sai là sai ở chỗ đó. Khoa ngượng với chính bản thân mình, với anh chàng người Tày, và với đồng bào dân tộc vùng cao Tây Bắc.
Lững thững đi về bãi gửi xe, Khoa định bụng nói chuyện này với hai chị, đó là một trải nghiệm rất lớn đối cuộc đời của Khoa. Nhưng chưa kịp hỏi thì thấy chị Khánh Linh hớt ha hớt hải chạy từ bên trong bãi gửi xe ra phía cổng nhìn Khoa bằng ánh mắt lo lắng:
– Khoa, Khoa, em có nhìn thấy Huyền đâu không?
Khoa lắc đầu đáp:
– Không, em không nhìn thấy, em chơi trên chợ từ sáng tới giờ, giờ mới về đến đây.
Khánh Linh đi đi lại lại, cầm chiếc điện thoại hoàn toàn không có một vạch sóng trên tay, trên màn hình điện thoại còn hiện tên cuộc gọi vừa gọi “Thu Huyền” cả chục lần, cô lẩm bẩm một mình:
– Quái lạ! Nó đi đâu nhỉ? Vừa rồi còn cùng mình mua một quần áo của người Mông. Thôi chết rồi, không lẽ ……….. Huyền nó bị bắt đi theo tục …… cướp vợ của người Mông?
Mặc dù Khánh Linh nói khá nhỏ nhưng Khoa vẫn nghe tiếng, cậu thốt lên:
– Cướp vợ???
Khánh Linh gật đầu trong sự lo lắng của Khoa. Cô tự nghĩ trong đầu: “Chẳng lẽ cái Huyền nó “bấn” đến như vậy rồi sao?”