Tà Áo Nơi Biên Cương - Chương 17: Chợ phiên Tả Sín Chài (1)
Khánh Linh, 30 tuổi, nhiều hơn Thu Huyền 2 tuổi, còn Khoa đương nhiên là ít tuổi nhất rồi, lên tiếng trước khi ba người vào chợ, cô chỉ lên phía đỉnh đồi, nơi trung tâm của Chợ phiên, kèn kẹt tấp nập rất đông người:
– Khoa này nếu lên đây để chụp ảnh thì cứ chủ động đi các nơi trong chợ, chợ rất rộng, rất đông người. Nếu lạc các chị thì cứ gọi điện, nếu không gọi được thì cứ 12h là xuống bãi gửi xe này nhé. 10h chúng ta phải về trường không thì muộn mất. Các chị phải đi mua đồ cho trường nên không theo em chụp ảnh được đâu.
Nhìn thấy nườm nượp người người đủ các dân tộc trong mầu áo xúng xắng, mang đậm bản sắc của dân tộc mình, trong lòng Khoa vô cùng phấn khích, cậu dự định sẽ chụp thật nhiều ảnh để làm tư liệu cho chuyến thực tập của mình. Ở điểm trường Pa Thăm, nhiều nhất là đồng bào dân tộc H’Mông, thứ đến là dân tộc Thái, còn các dân tộc khác rất ít và lại ở rất xa nên Khoa ít có dịp tiếp xúc. Ở đây thì khác, có hàng chục đồng bào dân tộc khác nhau, tha hồ cho Khoa tác nghiệp.
– Vâng, thế hai chị có cần em đi cùng để xách đồ không? Em thấy mẹ bảo phải mua nhiều đồ lắm cơ mà.
Thu Huyền tủm tỉm, Khánh Linh cũng tỉm tủm theo, Khoa không biết đó thôi, vì hai nàng là cô giáo, chỉ cần nói mình là cô giáo, mua đồ cho các em học sinh thì được bán rẻ hơn, đồng bào còn tranh nhau bưng bê mang vác đồ cho các cô nữa ấy chứ. Thu Huyền nhỏ nhẹ, đằm thắm như một bông hoa lan rừng mọc nơi sâu thẳm nhất, trên ngọn cây cao nhất mà chàng trai Mông nào giỏi nhất, dũng cảm nhất mới mới có thể ngắt được, nàng nở một nụ cười tươi làm ánh nắng sớm chiếu vào hàm răng ngọc phản chiếu ra tia sáng:
– Khoa đừng lo, các chị tự sắp xếp được. Nhớ chụp thật nhiều ảnh là được.
Khoa có chút ngất ngây trước vẻ đẹp của chị Thu Huyền, chị em sóng sánh trên xe mấy tiếng đồng hồ, nhưng đó là khi đêm, trời tối, với lại Khoa ngồi trước cầm lái, còn chị ngồi sau nên cũng chẳng nhìn được nhiều. Giờ đây, khi cái ông mặt trời đã lên cao, rọi sáng muôn vật, Khoa nhìn chị đẹp đến lạ, đẹp như thiên thần lạc vào vùng đất thiên nhiên hoang dã này. Chị Thu Huyền người nhỏ nhắn, mình dây có khuôn mặt thon thon, cánh mũi cao cao quyền quý, có cái giọng thanh thanh nghe thật dịu lòng người.
– “Vâng, thế 2 chị đi cẩn thận, có gì thì alo cho em nhé”.
Vừa kéo Thu Huyền đi, Khánh Linh vừa ngoảnh lại phía sau dặn dò thêm:
– Ở trên đây, điện thoại đôi khi chỉ là vật trang trí. Nhớ lời chị dặn, nếu có chuyện gì xảy ra, chỉ cần nói: “Em là con cô giáo Thương điểm trường Pa Thăm” thì sẽ có người giúp đỡ em.
Hai chị đi khuất, mình Khoa đứng giữa bãi xe như trời trồng, cầu nói chị Khánh Linh vẫn văng vẳng trong đầu, “Em là con cô giáo Thương, điểm trường Pa Thăm”, có thể lúc này Khoa chưa hiểu được hết ý nghĩa của câu nói, nhưng rồi đến một ngày đó, nhất định, nhất định Khoa sẽ hiểu. Cô giáo Thương – điểm trường Pa Thăm là một cái tên hết sức có ý nghĩa, hết sức lớn lao đối với đồng bào dân tộc của cả một vùng giáp biên của huyện Sìn Hồ này, dân địa phương vẫn gọi dẻo đất trùng điệp núi đồi, dẻo đất của những ruộng bậc thang, rừng nguyên sinh, của hoa ban nở trắng đồi, của đồng bào dân tộc thuần khiết nhất, tận cùng phía Tây của tỉnh Lai Châu, giáp với nước bạn Trung Quốc này là vùng Tả Sín Chài.
—-
Với chiếc máy ảnh lủng lẳng trước ngực, Khoa bắt đầu khám phá chợ phiên.
Chợ phiên Tả Sín Chài nằm trên một ngọn đồi trống, để lên được trung tâm của chợ, là đỉnh của ngọn đồi phải vượt lên một đoạn dốc. Người lên kẻ xuống tấp nập như người ta đi chảy hội Chùa Hương mà Khoa đã có vài lần đi. Con dốc này cũng không hề nhàm chán giống như nhiều con dốc thoải khác mà Khoa đã đi trong mấy ngày ở trên đây vừa rồi. Ngay từ ở chân đồi, theo hướng đi lên, ở bên bên sườn con đường mòn đã la liệt các mặt hàng mà người dân bày bán.
Khác với trung tâm chợ phiên, nơi có các sạp hàng to của người bán hàng chuyên nghiệp, mua đi bán lại, bày bán ở bên ngoài này chỉ là các cá nhân, họ chỉ bán một loại đồ duy nhất mà mình săn được, bắt được, trồng được. Rất phong phú và đa dạng các mặt hàng.
Khoa lại gần một anh chàng người Tày đội mũ nồi đen, áo quần đen giống người Mông nhưng áo của người Tày có một chút khác biệt, đấy là các cúc áo là một cục vải cuộn lại, đính với tà áo bên kia bằng một vòng tròn, áo cũng ngắn tay chứ không giống người Mông thường là áo dài tay. Bên cạnh anh chàng người Tày chắc là vợ và đứa con nhỏ chắc chưa đến 1 tuổi ấp vào ngực bằng một miếng vải buộc chéo ra sau lưng. Vợ anh chàng người Tày này cũng diện bộ mầu đen nhưng trên cổ có một vòng bạc rất lớn, đầu chít một chiếc vòng vải bằng cổ tay giống như Liền chị người quan họ Bắc Ninh, vừa là vật trang trí, vừa là có tác dụng vấn tóc gọn cho gọn gàng. Không cần nói, Khoa cũng biết đây là trang phục truyền thống của đồng bào Tày. Nhìn cái bao tải đang lùng nhùng như có con gì đó ở trong trước mặt anh chàng người Tày đó hỏi:
– Anh có cái gì trong bao tải này đấy.
Người Tày thấy khách hỏi thì cười tươi ra mặt, có vẻ nóng ruột muốn bán lắm rồi, mở toạc cái bao tải dứa ra khoe:
– Cái người Kinh xem đi, đây là cái con dúi mà tao bắt nó trong rừng sâu, tao phải đào hang, đặt bẫy nó mấy ngày mới bắt được đấy. Cái người Kinh mua cho tao đi, để tao còn lên chợ uống bát rượu, tao khát lắm rồi. Để cái vợ tao còn phải lên chợ mua cái vòng cho đứa con gái tao sắp lấy chồng nữa. Người Kinh mua hộ tao đi, cái ông mặt trời sắp lên đến đỉnh đồi, chợ sắp tan rồi.
Khoa ngó vào trong, một chú dúi nho nhỏ mầu vàng ngéo đang ngoe nguẩy bên trong bao tải, ra chiều sợ sệt lắm.
– Lên chợ đến bán hàng, sao lại còn đi uống rượu.
Anh chàng người Tày có vẻ sốt ruột muốn bán cho xong, nó rất nhanh bằng cái giọng líu lo pha nửa tiếng tộc, nửa tiếng Kinh:
– Ấy cái người miền xuôi không biết rồi. Tao không phải dân buôn đâu mà, tao chỉ bán con dúi tao bắt được để có cái trả tiền rượu tao uống thôi à. Người miền xuôi mua cho tao đi.
– Thế anh bán bao nhiêu tiền con dúi này.
Anh chàng Tày đưa tay lên gãi đầu qua cái mũ nồi, cũng chẳng phải anh ngứa đâu, chắc là vì đang phải nghĩ:
– Ơ, tao … tao cũng biết ……. Người miền xuôi chỉ cần trả tao đủ tiền rượu tao uống đến khi nhìn một cái vợ thành hai cái vợ là được rồi.
Lần này đến lượt Khoa gãi đầu, cậu không biết phải trả bao nhiêu tiền nữa. Với lại cũng không muốn mua vật sống mang về, rất lích kích:
– Thế để em đi lên chợ hỏi xem tiền rượu bao nhiêu rồi xuống đây trả anh tiền nhớ?
Khoa nói bừa như vậy, hy vọng rằng anh dân tộc hiểu là ý mình không muốn mua. Nhưng anh chàng Tày gật đầu ngay tắp tự, cứ như là việc mua bán đã thành công:
– A, cái bụng của người miền xuôi tốt quá, mua cho tao con dúi, để tao có tiền uống bát rượu ngô cay nồng đến say rồi. Người miền xuôi đi đi, tao chờ người miền xuôi xuống đây trả tao cái đồng tiền.
Khoa gật đầu cười rồi bước đi tiếp, Khoa không hiểu, hoặc chưa hiểu, cái gật đầu của mình sẽ gây ra hậu quả khủng khiếp như thế nào. Sau lưng cậu vẫn văng vẳng tiếng hát ru con của vợ anh chàng người Tày: “Kin tồng thon, nòn tồng uổn” (ăn như con nhím, ngủ như con dúi – Cu Zũng).
—–
Sau chụp vài kiểu ảnh gia đình anh chàng người Tày, Khoa đi thêm một đoạn rồi ghé vào một thúng bày cái gì đó rất lạ mắt, mầu đen đen, trông giống như nấm mà cậu biết nhưng không phải vì nó to hơn rất nhiều, to như cái bát oto. Đứng trước thúng hàng đó là một chị người dân tộc Nùng, sau lưng địu một đứa con nhỏ thó, đầu ngặt về một bên, chắc là đang ngủ say. Chị người Nùng đứng, đung đưa lưng mình như ru con ngủ thêm say, chị mặc một chiếc áo mầu đen, có cổ chéo giống như áo dài của phụ nữ người Kinh nhưng không có tà áo, phần ngực lệch về một bên vai kiểu cách bằng một miếng vải mầu xanh da trời, ở phần bụng có một cái đai bằng thổ cẩm quấn quanh, quần ống rộng, đi giầy ba ta vải, đầu chít khăn xanh đỏ kín đến tận giữa trán, nhìn gọn gàng, nhanh nhẹn giống nữ hiệp trong phim Tầu. Khoa ngồi xuống, sờ sờ vào đồ ở trong thúng của chị người Nùng:
– Cái gì đây hả chị?
Chị người Nùng nhoẻn cười một cái làm lộ hàm răng đen bóng loáng của mình:
– Cái nấm rừng đấy, người Kinh mua đi. Tao bán rẻ cho.
Theo kiến thức của Khoa, nấm có rất nhiều loại, miền nào, vùng nào cũng có, nhưng không phải loại nấm nào cũng ăn được. Khoa nhìn loại nấm này thấy rất lạ mắt bèn thắc mắc hỏi:
– Nấm này là nấm gì? Ăn có bị ngộ độc không chị?
Hình như là chị người Nùng này không hài lòng với câu hỏi của Khoa thì phải, chị cau mày làm cái khăn chít trên đâu hơi vểnh lên, chị đong đưa lưng mình mạnh hơn ban nãy:
– Này cái người Kinh, mình biết mình mới bán, chứ mình không bán cái nấm độc cho đồng bào đâu. Cái bụng mình tốt, mình không làm điều xấu đâu. Người Kinh không tin người đồng bào mình sao?
Câu nói này của chị người Nùng làm Khoa thất thần suy nghĩ, câu hỏi của Khoa cũng chỉ là vô tư thôi, cậu không biết rằng, đối với suy nghĩ trong sáng, thánh thiện của đồng bào dân tộc, điều đó là một sự xúc phạm không hề nhẹ một chút nào. Khoa chữa:
– Không, em không có ý đó. Em tin người đồng bào mình mà. Thế cái nấm này có tác dụng gì?
– Người Kinh mua cái nấm này, thái ra một ít rồi đun với nước nóng, uống vào rất mát trong người, lại khỏe mạnh để đi rừng, lội suối không bị bệnh tật gì đâu.
Khoa nhặt lấy 3 cây nấm to nhất, vừa nhặt vừa hỏi:
– Thế mẹ con chị xuống chợ phiên có một mình thôi à?
Đỡ lấy ba cây nấm từ tay Khoa, chị người Nùng dùng tay không nâng lên hạ xuống vài lần:
– Không, còn có thằng chồng tao theo tao đi chợ phiên nữa. Nhưng nó đang uống rượu ở trên kia kìa, khi nào nó say, nó sẽ bò xuống đây để tao bưng nó vắt lên cái lưng ngựa, con ngựa sẽ đìu nó về nhà cùng tao. Nấm mày mua nửa cân, mày trả tao 50 nghìn đi.
Khoa lại gãi đầu, không hiểu sao chị người Nùng biết ba cây nấm to uỳnh kia nặng nửa cân. Chị chỉ dùng tay thôi mà:
– Chị có cân đâu sao mà biết nửa cân?
– Tao cầm tay là tao biết mà, người Kinh lại không tin đồng bào mình hay sao? Tao đã bao giờ lừa người Kinh chưa?
Chị người Nùng lại giở bài cũ ra làm Khoa bối rối, cậu chừa luôn cái thói nghi ngờ người đồng bào, rút ví ra trả 50 nghìn nhưng có định trêu, với lại cũng thử mặc cả xem thế nào, có giống cách buôn bán của người miền xuôi không?:
– Không, em không có ý đó. Em chỉ thắc mắc thôi mà. Em mua nhưng chị bớt cho ít tiền được không?
– Tao không bán đắt cho người miền xuôi đâu. Mà tao không bán đắt thì sao tao phải bớt tiền.
Khoa cố nặn trong đầu ra một lý do, đúng là cậu cũng không biết giá nấm này, chẳng biết thế nào là đắt, là rẻ. Nghĩ mãi, rồi nhớ ra lời chị Khánh Linh dặn lúc ở bãi gửi xe, cũng là để thử xem có đúng như lời chị nói không:
– Em là con của cô giáo Thương điểm trường Pa Thăm, chị bớt cho em đi.
Mắt chị người Nùng hình như sáng lên, chị không chìa tay ra lấy tiền nữa mà cười tươi như gặp người thân:
– Người Kinh là con của cô giáo Thương à? Nếu thế tao không lấy tiền của người Kinh đâu. Nhà tao, bản tao, dân tộc Nùng tao ở bản Nậm Thàng biết ơn cô giáo Thương lắm. A Dế nhà tao, Pản May nhà tao đều học cái chữ của cô giáo Thương, được ăn cái cơm trắng của cô giáo Thương cho. Tao không lấy tiền của người Kinh đâu. Người Kinh cầm nấm đi, tao cho người Kinh đấy.
Khoa đã tin lời chị Khánh Linh nói, tiếng mẹ Thương, tiếng cô giáo Thương đã không còn nằm ở điểm trường Pa Thăm mà vang xa cả vùng núi hẻo lánh Tây Bắc này rồi, như làn gió, như áng mây, như hạt mưa sa thấm đẫm vào đất, vào lòng người rồi. Thêm một lần nữa, Khoa tự hào về mẹ!
—–
Cầm theo cái túi nilong đựng ba cây nấm, Khoa tiếp tục bước lên đồi cao, nơi trung tâm của chợ Phiên.
Có rất nhiều người bán các loại mặt hàng nông sản, lâm sản như anh chàng người Tày, như chị người Nùng ở hai bên đường lên đỉnh đồi. Hầu như Khoa mỗi cửa hàng Khoa đều ghé lại một chút, hỏi xem đây là thứ gì, rồi chụp ảnh xong mới đi. Điểm chung của người bán là đều ăn mặc theo trang phục truyền thống của dân tộc mình, chỉ bán một loại mặt hàng duy nhất do chính mình trồng được, săn được, hái được, bắt được, bẫy được. Họ bán thêm để kiếm tiền, rồi lát nữa lên chợ chính mua những thứ mình cần, xong họ còn đi chơi chợ phiên, đó mới là mục đích chính của mỗi lần đi chợ.
Có một người Dáy bán một xô mật ong rừng, vẫn còn nguyên sáp ong, nhộng ong bò lổm ngổm, mùi mật ong rừng thơm một thanh dịu chứ không nặng mùi đường như mật ong miền xuôi.
Có người Dao bán ngọc cẩu rừng, trông giống như của giềng nhưng không phải. Ngọc cẩu có hai loại, ngọc cẩu đực và ngọc cẩu cái. Người dân tộc gọi là ngọc cẩu bởi nó trông hình dạng giống như giái con chó, to hơn ngón chân cái một chút. Ngọc cẩu đực và ngọc cẩu cái ngâm chung với nhau trong một chum rượu, uống vào bổ tinh, cường thận, tráng dương. Khoa có thắc mắc hỏi tại sao phải ngâm chung ngọc cẩu đực và ngọc cẩu cái với nhau thì được anh chàng người Dao trả lời thế này:
– Ơ cái người Kinh không biết à, theo tao hỏi cái người Kinh nhớ, đàn bà phải có đàn ông mới sinh được con đúng không? Vì vậy ngọc cẩu đực phải ngâm với ngọc cẩu cái mới được chứ. Có thế thôi mà người Kinh cũng không biết ạ.
Có đồng bào bầy bán mấy giò lan rừng; có đồng bào bán bịch chuối hột đã cắt lát nhỏ phơi khô; bán cây ba kích; bán củ sâm đất; bán con lợn nhỏ xíu có ba lông mọc chung một lỗ; bán con gà đen tuyền, đen cả lông đến da thịt. Nhiều lắm, Khoa không nhớ xuể.
—–